Cập nhật thông tin chi tiết về Đọc Báo Song Ngữ Anh – Việt mới nhất trên website Duongveyeuthuong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
No wonder the Germans won half of the world’s Nobel prize, look at 0-6 years old to learn what! Children age 6 most suitable for preschool education how? What kind of education can kill the child’s natural precious things, what kind of education will make these precious things to bloom and benefit the whole life? In twentieth Century, Germany has more Nobel prizes than any other country, swept the world half of the Nobel prize. The Germans are well known for their rigorous education, and they have come from the practice of thinking over and over again. “Three years old look big, seven years old look old”, also is the case, the German children’s pre-school education is also the world’s attention, they in the end is how to cultivate so many excellent talents? 1. Home education The focus is on the mother to the child’s education. German social welfare is very good, so most of the German mother in the first few years after the birth of a child with a child,Germans believe that the role of the mother of the child’s growth has an important position, so the German full-time mother and even to their own as a mother proud. So when they make the effort to make the child, it also reveals the wisdom of everywhere: Self-reliance from the beginning of the meal When the baby can hold tableware from their meals, can sit to children to eat their own meals in the stool, mothers are fully prepared to clean up the mess. By the age of 3, you can have dinner at the dinner table with the adults. The most important thing is that they do not feed, do not force children to eat, my mother decided to prepare what nutrition food, do not eat, how to eat decided by the child. And China’s adults are always worried about the child is too small to do sth over and over again, not enough to eat, people than our Chinese children grow stronger? Cultivate perseverance character In the concept of many families in Germany, there is no failure, only temporarily without success, so the German baby even a little age will know the truth. Have seen a Chinese follow their parents to the 5 year old German boy, a running race in a school, the children ran a sprained foot, the teacher used to comfort said “although failure, but you have been brave” and so on, the German children quickly corrected teacher: “I have not failed, but there is no success, hear others feel really great German doll. To encourage children to face challenges German parents won’t like Chinese as parents, feel the risk will help the child to take care of. For example, 2 year old baby trying to climb a 2 meter high parapet, they will tell the child, this task may be a bit difficult, but parents believe that through your efforts, you will succeed, encourage children to face challenges beyond the scope of. Sometimes see 1 year old baby left alone to climb the steep slope, even repeatedly rolled, mother just stand quietly beside. Perhaps it is this to encourage children to face the challenges of the spirit, to cultivate so much courage to break the normal procedure of Nobel prize winners. In the face of difficult child The children of the world are the same, the German children will be in the supermarket to buy things. A German mother was told to buy a toy car removing children: “if you have the ability to buy a car for removing yourself, you can buy, if not, then you can only give up.” Children feel that they do not have the ability, do not quarrel with the mother did not trouble to follow her mother home. From a small burden of responsibility I deeply feel the heart is a German mother, a 3 year old German girl pushing a doll out seriously to doll umbrella, sweat, baby. When a China girl asked if she could take her doll to play for a while, she resolutely refused: “I want to take care of Tom (doll), I was her mother, I can’t let anyone hurt him……” The German girl’s mother said, give children to buy the doll is objective, is to let the children take responsibility, know how to take care of others, but not always being taken care of. Respect for the child, the idea of “first come first served” rather than the emphasis on sharing 2. Kindergarten Education “Play” is an important task Is not the same as China’s kindergarten is, Germany’s kindergarten is generally mixed age, there is no obvious class. Children from 2-3 years old into the kindergarten, every morning to the kindergarten,Find a favorite friends, choose a favorite subject to play chúng tôi can climb trees, ants can observe, playing house, also can play with toys. Sometimes the teacher will lead them to visit the bakery, factories, hospitals, fire department, police department, welfare and even the funeral home, the teacher will invite these people to the kindergarten Department told the children some basic common sense. Each kindergarten teaching objectives and programs are determined by the kindergarten teachers themselves, rather than the education sector unified decision. The basic living skills training German children’s ability to live is very strong, which also benefited from the teacher’s education direction. In 3 years, the kindergarten will put some old old computer machine repair, even let the children contact with children in kindergarten play and rest to develop plan plan, teach children how to better organize their own things, dress collocation, also let the children practice difficulties to find their own police, firefighters found…… By the time the child was 6 years old, they had been a small master of self – care. Kindergarten can not give the children the homework and reading and writing tasks The German kindergarten requirements can give children homework and reading and writing tasks, so you are in Germany kindergarten not to hear the sound of reading, don’t see home after school homework to accompany the mother baby in germany. The Germans think early intelligence development will damage the child’s enthusiasm for learning, rather than a few years later also don’t let the children tired of learning life, so even if the interest class, they also began to wait for the child after the age of 6. How to adapt to the park The German kindergarten students had good experience: they will make new mothers, children in the park just the first 3~4 days with children, mothers chatting together, children playing in the side. On the fourth day of admission before school, the teachers will tell the child, from tomorrow, the mother can not always accompany me, let the children have a psychological preparation. To the fifth day, my mother will be accompanied by 1 hours to leave the return, sixth days to leave 2 hours to return…… A week later, the child will be adapted to the no mother in the side of the campus life, greatly reducing the child’s separation anxiety. Người Đức nhận một nửa giải Nobel của thế giới, hãy nhìn cách trẻ dưới 6 tuổi học được những gì Trẻ em trước 6 tuổi thích hợp với loại giáo dục mầm non ra sao? Loại giáo dục nào sẽ giết chết thứ quý giá bẩm sinh của trẻ em, loại giáo dục nào sẽ khiến những thứ quý giá đó được nở rộ và tạo hạnh phúc cho cả cuộc đời? Thế kỷ 20, giải thưởng Nobel của nước Đức nhiều hơn bất cứ nước nào, giành hết một nửa giải thưởng Nobel của thế giới. Người Đức nổi tiếng là cẩn trọng, họ rất coi trọng trẻ em. Cũng chính vì như vậy, giáo dục mầm non của trẻ em Đức cũng trở thành tiêu điểm của thế giới. Rốt cuộc họ làm sao bồi dưỡng được nhiều nhân tài xuất sắc như vậy? 1. Giáo dục gia đình Điều quan trọng là giáo dục của người mẹ đối với đứa con, phúc lợi xã hội của nước Đức rất tốt, vì vậy phần lớn các bà mẹ người Đức trong những năm đầu sau khi sinh con đều lựa chọn ở nhà trông con. Người Đức cho rằng, vai trò người mẹ có địa vị rất lớn đối với sự trưởng thành của con. Vì vậy những bà mẹ “làm toàn thời gian” thậm chí còn cảm thấy tự hào vì bản thân là một người mẹ. Khả năng tự lập bắt đầu từ ăn cơm Khi các bé bắt đầu có thể cầm thìa ăn cơm, có thể ngồi vững, chúng đã phải tự mình ăn cơm ở trên ghế ăn. Các bà mẹ cũng chuẩn bị sẵn tâm lý để thu dọn mâm cơm lúc “tàn cuộc”. Đến khi trẻ lên 3 tuổi, chúng có thể ngồi cùng người lớn trên bàn ăn để ăn cơm. Quan trọng nhất là họ không bón cơm và không ép con ăn cơm. Mẹ sẽ là người chuẩn bị món ăn dinh dưỡng, nhưng việc ăn và cách ăn là tùy thuộc ở trẻ. Bồi dưỡng phẩm chất ý chí bền vững Ở Đức có không ít gia đình quan niệm “không có thất bại, chỉ có tạm thời chưa thành công”, vì vậy các bé người Đức tuy tuổi còn rất nhỏ nhưng đã hiểu được đạo lý này. Tôi từng gặp một cậu bé người Đức 5 tuổi trong một lần nhà trường tổ chức thi chạy bộ. Cậu bé chạy một lúc thì bị trật chân, thầy giáo chạy đến nói mấy câu như “tuy thất bại rồi, nhưng biểu hiện của em rất dũng cảm”. Cậu bé người Đức lập tức đính chính thầy giáo: “Em không thất bại, chỉ là tạm thời chưa thành công”. Những người đứng bên cạnh nghe thấy đều cảm thấy cậu bé người Đức thật tài giỏi. Cổ vũ trẻ đối diện thách thức Cha mẹ người Đức không giống cha mẹ các nước Á Đông, khi họ thấy con cái đối mặt với rủi ro, họ sẽ giúp con giải quyết. Ví dụ, bé 2 tuổi thử trèo lan can cao 2 mét, họ sẽ nói với con rằng nhiệm vụ này tuy khó khăn, nhưng ba mẹ tin rằng con sẽ có thể thành công. Họ cổ vũ con đối diện với thử thách vượt quá năng lực. Đôi khi, nhìn thấy em bé 1 tuổi tự mình bò lên sườn dốc, dù ngã nhiều lần, người mẹ chỉ đứng bên cạnh im lặng nhìn con. Có lẽ, tinh thần cổ vũ trẻ em đối diện với thử thách này đã đào tạo được nhiều người đoạt giải thưởng Nobel dũng cảm phá vỡ quy tắc bình thường như vậy. Đối mặt với các bé khó xử lý Trẻ em người Đức cũng giống như mọi trẻ em khác, thích nhõng nhẽo đòi mua đồ ở trong siêu thị. Để đối phó với tính cách này của con trẻ, một bà mẹ người Đức đã nói với đứa con đòi mua một chiếc xe đua đồ chơi loại lắp ráp: “Nếu như con có khả năng mua cho mình một chiếc xe đua lắp ráp, con có thể mua. Nếu như không có, vậy con chỉ có thể từ bỏ thôi”. Đứa bé cảm thấy mình không có khả năng nên không làm ồn nữa mà liền ngoan ngoãn theo mẹ về nhà. Gánh vác trách nhiệm từ nhỏ Một bé gái người Đức 3 tuổi đẩy một búp bê vải ra khỏi nhà, che ô, lau mồ hôi, bón sữa cho búp bê vải như chăm sóc em bé. Khi một bé gái khác hỏi rằng có thể cho mượn búp bê vải chơi một lát không, cô bé 3 tuổi cương quyết từ chối: “Mình phải chăm sóc tốt cho Tôm (búp bê vải), mình là mẹ của nó, mình không thể để người khác làm hại nó…”. Mẹ của bé gái người Đức sau đó chia sẻ mua búp bê vải cho con là có mục đích, là hy vọng con từ nhỏ đã gánh vác trách nhiệm và biết chăm sóc người khác chứ không phải luôn được người khác chăm sóc. Tôn trọng trẻ em, chủ trương “đến trước được trước” chứ không nhấn mạnh chia sẻ Bà mẹ Đức chủ trương: Ai đến trước người đó chơi trước, những bạn nhỏ khác phải học cách chờ đợi. Các bé đều cảm thấy thích điều này. Tôn trọng nhân cách độc lập của trẻ, tôn trọng quyền lợi ưu tiên của trẻ là rất quan trọng. Một mặt là bồi dưỡng lòng tự tôn và tự tin tốt đẹp cho con, mặt khác truyền thông điệp cho con rằng: Con cố gắng con có được trước thì là của con, người khác không giành lấy được. Vì vậy, điều đó làm cho trẻ em Đức phấn đấu vì mục tiêu của mình. 2. Giáo dục trường mầm non “Chơi” là nhiệm vụ quan trọng Đào tạo kỹ năng sống cơ bản Năng lực sống của trẻ em Đức rất mạnh, điều này có được từ phương hướng giáo dục của giáo viên. Trong thời gian 3 năm, trường mầm non sẽ bày một số máy tính cũ, máy móc cũ cho các bé tiếp xúc hoặc sửa chữa, cùng các bé thiết lập kế hoạch chơi và kế hoạch nghỉ ngơi của trường mầm non, dạy các bé biết làm sao phối quần áo đẹp hơn, tự mình thu dọn đồ dùng, còn để các bé gặp khó khăn tự mình tìm cảnh sát, tìm nhân viên chữa cháy… Đến khi các bé 6 tuổi tốt nghiệp trường mầm non, chúng đã là những đứa bé giỏi biết tự chăm sóc mình. Trường mầm non không được bố trí nhiệm vụ đọc viết và làm bài tập cho các bé Trường mầm non của Đức quy định, không được bố trí nhiệm vụ đọc viết và làm bài tập cho các bé. Vì vậy khi bạn tới trường mầm non ở Đức sẽ không nghe thấy tiếng đọc sách sang sảng, cũng không nhìn thấy trẻ em Đức tan học về nhà phải nhờ mẹ cùng làm bài tập. Người Đức cho rằng, khai phát trí lực quá sớm sẽ tổn hại đến sự nhiệt tình học tập của trẻ, thà rằng trễ vài năm cũng không muốn trẻ cả đời chán ngán việc học. Vì vậy cho dù là lớp học năng khiếu, họ cũng đợi cho đến sau khi con 6 tuổi mới bắt đầu học. Nghĩa là họ sẵn sàng chấp nhận cho con em mình khởi động chậm hơn, xuất phát chậm hơn, bù lại có thể đi được một quãng đường xa hơn. Dạy trẻ thích ứng với môi trường mầm non Trường mầm non của Đức có kinh nghiệm rất hay đối với học sinh mới: Họ sẽ yêu cầu các bà mẹ của học sinh mới ở cùng với con trong ba, bốn ngày đầu con nhập học. Các bà mẹ tụ tập lại trò chuyện, các bé ở một bên chơi đùa. Cho đến trước giờ tan học của ngày thứ 4, cô giáo sẽ nói với các bé, bắt đầu từ ngày mai, mẹ sẽ không thể luôn ở bên cạnh các bé để các bé chuẩn bị tâm lý. Đến ngày thứ 5, trong lúc đang chơi cùng con, mẹ sẽ bỏ đi 1 tiếng rồi quay lại, trong ngày thứ 6 mẹ bỏ đi 2 tiếng rồi mới quay lại… Một tuần sau các bé sẽ thích ứng cuộc sống trong trường không có mẹ bên cạnh, giảm bớt rất nhiều căng thẳng cho các bé. Tin Tức song ngữ: Bài viết “7 xu hướng công nghệ sẽ thống trị vào năm 2017” Song ngữ Anh-Việt: Chủ đề “Sống và làm việc”Đọc Báo Song Ngữ Anh Việt
Email address
Password
Email address
Password
Please enter the verification code from your email. Be sure to check your spam folder if you can’t find it in your inbox.
Verification code
To change your password, please enter the email address with which you created your account.
Email address
Please enter the verification code from your email. Be sure to check your spam folder if you can’t find it in your inbox.
Verification code
New password
Chủ Dề Song Ngữ Anh Việt
The Lost City
An explorer’s encounter with the ruined city of Machu Picchu, the most famous icon of the Inca civilisation.
When the US explorer and academic Hiram Bingham arrived in South America in 1911, he was ready for what was to be the greatest achievement of his life: the exploration of the remote hinterland to the west of Cusco, the old capital of the Inca empire in the Andes mountains of Peru. His goal was to locate the remains of a city called Vitcos, the last capital of the Inca civilisation.
Cusco lies on a high plateau at an elevation of more than 3,000 metres, and Bingham’s plan was to descend from this plateau along the valley of the Urubamba river, which takes a circuitous route down to the Amazon and passes through an area of dramatic canyons and mountain ranges.
On 24 July they were a few days into their descent of the valley. The day began slowly, with Bingham trying to arrange sufficient mules for the next stage of the trek. His companions showed no interest in accompanying him up the nearby hill to see some ruins that a local farmer, Melchor Arteaga, had told them about the night before. The morning was dull and damp, and Bingham also seems to have been less than keen on the prospect of climbing the hill. In his book Lost City of the Incas, he relates that he made the ascent without having the least expectation that he would find anything at the top.
Bingham writes about the approach in vivid style in his book. First, as he climbs up the hill, he describes the ever-present possibility of deadly snakes, ‘capable of making considerable springs when in pursuit of their prey’; not that he sees any. Then there’s a sense of mounting discovery as he comes across great sweeps of terraces, then a mausoleum, followed by monumental staircases and, finally, the grand ceremonial buildings of Machu Picchu. ‘It seemed like an unbelievable dream the sight held me spellbound ‘, he wrote.
We should remember, however, that Lost City of the Incas is a work of hindsight, not written until 1948, many years after his journey. His journal entries of the time reveal a much more gradual appreciation of his achievement. He spent the afternoon at the ruins noting down the dimensions of some of the buildings, then descended and rejoined his companions, to whom he seems to have said little about his discovery. At this stage, Bingham didn’t realise the extent or the importance of the site, nor did he realise what use he could make of the discovery.
However, soon after returning it occurred to him that he could make a name for himself from this discovery. When he came to write the National Geographic magazine article that broke the story to the world in April 1913, he knew he had to produce a big idea.
He wondered whether it could have been the birthplace of the very first Inca, Manco the Great, and whether it could also have been what chroniclers described as ‘the last city of the Incas’. This term refers to Vilcabamba the settlement where the Incas had fled from Spanish invaders in the 1530s. Bingham made desperate attempts to prove this belief for nearly 40 years. Sadly, his vision of the site as both the beginning and end of the Inca civilisation, while a magnificent one, is inaccurate. We now know, that Vilcabamba actually lies 65 kilometres away in the depths of the jungle.
One question that has perplexed visitors, historians and archaeologists alike ever since Bingham, is why the site seems to have been abandoned before the Spanish Conquest. There are no references to it by any of the Spanish chroniclers – and if they had known of its existence so close to Cusco they would certainly have come in search of gold.
An idea which has gained wide acceptance over the past few years is that Machu Picchu was a moya, a country estate built by an Inca emperor to escape the cold winters of Cusco, where the elite could enjoy monumental architecture and spectacular views. Furthermore, the particular architecture of Machu Picchu suggests that it was constructed at the time of the greatest of all the Incas, the emperor Pachacuti (1438-71). By custom, Pachacuti’s descendants built other similar estates for their own use, and so Machu Picchu would have been abandoned after his death, some 50 years before the Spanish Conquest.
Thành phố mất tích
Cuộc gặp gỡ của nhà thám hiểm với thành phố đổ nát Machu Picchu, biểu tượng nổi tiếng nhất của nền văn minh Inca
Khi nhà thám hiểm, học giả người Hoa Kỳ Hiram Bingham đến Nam Mỹ năm 1911, ông đã sẵn sàng cho những thành công lớn nhất của cuộc đời mình: thăm dò vùng nội địa xa xôi ở phía tây của Cusco, thủ đô cũ của đế chế Inca ở dãy núi Andes của Peru. Mục tiêu của ông là xác định vị trí của phần còn lại của thành phố được gọi là Vitcos, thủ đô cuối cùng của nền văn minh Inca.
Cusco nằm trên một cao nguyên cao ở độ cao hơn 3,000 mét, và kế hoạch của Bingham là đi xuống từ cao nguyên này dọc theo thung lũng sông Urubamba, đi vòng quanh xuống vùng Amazon và đi qua khu vực hẻm núi tráng lệ và các dãy núi.
Khi Bingham và nhóm của ông bắt đầu đến Urubamba vào cuối tháng 7, họ đã có một lợi thế so với những lữ khách trước đây: một con đường gần đây đã được phá hủy xuống phía thung lũng của hẻm núi để cao su được mang ra ngoài bằng những con la từ khu rừng. Hầu như tất cả lữ khách trước đây đã rời con sông tại Ollantaytambo và vượt con đèo cao cắt ngang qua các ngọn núi để tái hợp với hạ lưu sông, qua đó cắt một góc đáng kể, nhưng cũng không bao giờ đi qua khu vực quanh Machu Picchu.
Vào ngày 24 tháng 7, họ đã mất vài ngày để đi xuống thung lũng. Ngày bắt đầu một cách chậm rãi, Bingham cố gắng sắp xếp các con la đủ cho giai đoạn tiếp theo của hành trình. Những người bạn của ông ấy cho thấy sự không thích thú trong việc cùng ông đi lên ngọn đồi gần đó để xem một số tàn tích mà một nông dân địa phương tên là Melchor Arteaga, đã nói với họ về đêm trước. Buổi sáng thật ảm đạm và ẩm ướt, và Bingham dường như cũng không mấy thích thú với triển vọng leo lên đồi. Trong cuốn sách Lost City of the Incas (Incas-thành phố mất tích), ông thuật lại rằng ông đã tiến lên mà không có mong đợi tối thiểu nào rằng sẽ tìm thấy bất cứ điều gì ở trên đỉnh đồi.
Bingham viết về việc tiếp cận khu vực này theo phong cách sống động trong cuốn sách của mình. Trước hết,khi leo lên ngọn đồi, ông mô tả khả năng có tồn tại những con rắn độc chết người ‘có khả năng trườn bò đáng kể khi đuổi theo con mồi’; tuy nhiên ông lại chẳng thấy con nào. Sau đó, một cảm giác khám phá không ngừng tăng lên trong ông khi đi qua quang cảnh tuyệt vời của các bậc thềm, sau đó là một lăng mộ, tiếp theo là các cầu thang hoành tráng và cuối cùng, các tòa nhà nghi lễ lớn của Machu Picchu. ‘Nó có vẻ như một giấc mơ không tưởng, khung cảnh đã làm tôi say mê’ ông viết.
Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng thành phố bị lãng quên của người Inca là một công trình mới được biết đến gần đây và không được ghi chép lại cho đến năm 1948, nhiều năm sau chuyến hành trình của ông. Toàn bộ ghi chép của ông về khoảng thời gian đó giúp mọi người dần trân trọng những thành tựu của ông. Ông đã dành cả buổi chiều tại các tàn tích để ghi lại quy mô của một số tòa nhà, sau đó đi xuống và tái nhập với các bạn đồng hành của mình, những người mà dường như ông đã nói rất ít về khám phá của mình. Ở giai đoạn này, Bingham đã không nhận ra mức độ hay tầm quan trọng của địa điểm này, và cũng không nhận ra những gì ông có thể làm với việc khám phá.
Tuy nhiên, ngay sau khi trở về, một điều đã xảy ra giúp ông ta có thể vang danh từ khám phá này. Khi ông đến để viết bài cho tạp chí National Geographic, bài viết đã truyền bá một câu chuyện với thế giới vào tháng 4 năm 1913, ông ta biết rằng mình đã tạo ra một ý tưởng lớn.
Ông ấy tự hỏi liệu đó có phải là nơi sinh của người Inca đầu tiên, Manco Đại Đế, và liệu đó có phải là những gì mà các sử gia đã miêu tả là “thành phố cuối cùng của người Inca”. Thuật ngữ này đề cập đến Vilcabamba nơi những người Inca đã trốn khỏi những kẻ xâm lược Tây Ban Nha vào những năm 1530. Bingham đã nỗ lực trong tuyệt vọng để chứng minh niềm tin này trong gần 40 năm. Thật đáng buồn, tầm nhìn của ông về địa điểm này như là sự khởi đầu và kết thúc của nền văn minh Inca, trong khi đó đây là một khu vực tráng lệ, là không chính xác. Bây giờ chúng ta biết, rằng Vilcabamba thực sự nằm 65 km đi vào sâu trong rừng rậm.
Một câu hỏi gây bối rối cho du khách, sử gia và các nhà khảo cổ kể từ sau khám phá của Bingham, là tại sao khu vực này dường như đã bị bỏ hoang trước cả Thực Dân Tây Ban Nha. Không có tài liệu tham khảo nào về địa điểm này được viết bởi các sử gia Tây Ban Nha – và nếu như họ biết về sự tồn tại của nó gần Cusco thì chắc chắn họ sẽ đến để tìm kiếm vàng.
Một ý tưởng đã được chấp nhận rộng rãi trong vài năm qua là Machu Picchu là một moya, một đất nước được xây dựng bởi một hoàng đế Inca để thoát khỏi mùa đông lạnh giá của Cusco, nơi tầng lớp thượng lưu có thể thưởng thức kiến trúc kỳ vĩ và khung cảnh ngoạn mục. Hơn nữa, kiến trúc đặc biệt của Machu Picchu đặt ra giả thuyết là nó đã được xây dựng vào thời điểm rực rỡ nhất của Incas, hoàng đế Pachacuti (khoảng 1438-71). Theo phong tục, con cháu của Pachacuti xây dựng những khu đất tương tự khác cho mục đích sử dụng của họ, và vì thế Machu Picchu đã bị bỏ hoang sau khi ông ta chết, khoảng 50 năm trước Thực Dân Tây Ban Nha.
Kinh Thánh Song Ngữ Anh Việt Tân Ước
Có thể nói Kinh Thánh Tân Ước Song Ngữ Anh – Việt (NIV – VPNS) là bản Kinh Thánh song ngữ đúng nghĩa nhất hiện có tại Việt Nam. Phần tiếng Anh là bản dịch Kinh Thánh New International Version (NIV) – một trong những bản dịch được ưa chuộng, được đánh giá cao về chất lượng bản dịch cũng như văn phong Anh ngữ hiện đại, mang tầm vóc quốc tế. Phần tiếng Việt là bản dịch Kinh Thánh tương ứng (VPNS), song hành và hài hòa với bản tiếng Anh, mà vẫn đảm bảo tính trong sáng, tự nhiên của tiếng Việt, lẫn tính chính xác và sát với nguyên bản Hy Lạp và Hy Bá Lai.
Bản Kinh Thánh song ngữ này thích hợp cho độc giả sử dụng tiếng Anh lẫn độc giả sử dụng tiếng Việt. Trong ơn Chúa, cùng với công khó của nhiều học giả Kinh Thánh lẫn quý tôi con Chúa khắp nơi, hai bản dịch NIV và VPNS mang tính song hành và hài hòa với nhau. Người đọc phần tiếng Việt có thể dễ dàng tra cứu với phần tiếng Anh tương ứng. Người đọc phần tiếng Anh cũng có thể hiểu được phần ý nghĩa trong tiếng Việt. Cả hai cách đọc đều bổ trợ cho nhau mà không làm mất đi đặc trưng ngôn ngữ Anh – Việt. Một mặt, bản Kinh Thánh này giúp nâng cao khả năng sử dụng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Mặt khác, quan trọng hơn, bản Kinh Thánh này giúp cho việc đọc và học Kinh Thánh song ngữ trở nên thuận tiện và mang đến nhiều trải nghiệm sâu sắc về mặt ngữ nghĩa. Chính đặc trưng này sẽ là yếu tố thúc đẩy độc giả thêm hứng thú tra cứu Kinh Thánh, nuôi dưỡng lòng yêu mến lời Chúa và thêm khao khát tìm biết nhiều hơn về Chúa.
Bản Kinh Thánh song ngữ này là một món quà dễ thương, ý nghĩa và trang trọng cho người tin Chúa lẫn bạn bè chưa tin Chúa, đặc biệt là các bạn trẻ yêu thích học tiếng Anh. Nhân dịp lễ Tạ Ơn và nhất là dịp lễ kỷ niệm Chúa Giê-xu giáng sinh đang đến, cửa hàng Hải Đăng cam kết hỗ trợ quý khách trong công tác mang lời Chúa lan tỏa khắp nơi thông qua chương trình ưu đãi đặc biệt như sau : Giá Kinh Thánh giảm chỉ còn : 99,000 VND/quyển
Tên sách: Kinh Thánh Song Ngữ Anh Việt Tân Ước – Bản NIV – VPNS (VMI)
Nhà xuất bản: Tôn Giáo (Văn Phẩm Nguồn Sống xuất bản và giữ bản quyền)
Năm xuất bản: 2011
Nội dung : Các sách Tân Ước
Bìa: Da giả màu đen chữ vàng
Dây ruy-băng đánh dấu trang có chữ JESUS
Kích thước: 16.5 x 11 x 3 (cm)
Quý con cái Chúa xa gần nếu có nhu cầu cần mua Kinh Thánh này với số lượng nhiều cho các mục vụ, cho truyền giáo, tặng thân hữu hoặc tân tín hữu … Xin vui lòng liên hệ với Hải Đăng
Bạn đang xem bài viết Đọc Báo Song Ngữ Anh – Việt trên website Duongveyeuthuong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!